Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế về biển vì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững ở Biển Đông
Lá cờ Tổ quốc tung bay tại khu vực đảo Sinh Tồn Đông, quần đảo Trường Sa, tháng 4/2023. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Lá cờ Tổ quốc tung bay tại khu vực đảo Sinh Tồn Đông, quần đảo Trường Sa, tháng 4/2023. (Ảnh: Nguyễn Hồng)

Thứ trưởng có thể thông tin về sự cần thiết hợp tác quốc tế về biển trong bối cảnh hiện nay?

Nhu cầu hợp tác quốc tế về biển xuất phát trước hết từ thực tiễn tại khu vực. Như chúng ta đều biết, Biển Đông là nơi án ngữ nhiều tuyến đường hàng hải có vai trò quan trọng về mặt chiến lược và kinh tế bậc nhất trên thế giới, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và là nguồn sống của hàng triệu người trong khu vực.

Tuy nhiên, một thực tiễn không thể phủ nhận là Biển Đông hiện nay đang đối mặt với rất nhiều thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống gây quan ngại cho các nước trong khu vực nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung. Biển Đông là khu vực tồn tại nhiều bất đồng, tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và biển rất đa dạng, phức tạp, khó giải quyết và đã kéo dài trong nhiều thập kỷ qua.

Biển Đông cũng đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức về an ninh biển phi truyền thống như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường biển, đánh cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định, các hoạt động tội phạm trên biển như nhập cư trái phép, nạn buôn người trên biển, khủng bố và cướp biển… đe dọa đến trật tự và an ninh khu vực, ảnh hưởng nghiêm trọng tới phát triển bền vững và lợi ích của các nước trong và ngoài khu vực.

Việc đối phó triệt để và hiệu quả các thách thức đó đặt ra nhu cầu phối hợp hành động của các quốc gia ở các cấp độ khác nhau, song phương, khu vực và toàn cầu thông qua việc hài hòa hóa các hoạt động trên biển và giải quyết những vấn đề xuyên biên giới của biển và đại dương.

Việc Việt Nam thúc đẩy hợp tác quốc tế về biển xuất phát từ nghĩa vụ của Việt Nam theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Xuất phát từ nhận thức “các vấn đề của không gian biển có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và cần được xem xét một cách tổng thể”, UNCLOS quy định minh định hoặc ngầm định về nghĩa vụ hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau, từ bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật biển, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển, đến đối phó với tội phạm trên biển, hay trong việc xử lý các vùng biển chưa phân định…

Sau 42 năm thông qua và 30 năm có hiệu lực, vai trò UNCLOS ngày càng được khẳng định và đề cao với tư cách là khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương, và là cơ sở pháp lý cho mọi hành động và hợp tác ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu. Điều này được khẳng định trong các Nghị quyết thường niên về Đại dương và Luật Biển của Liên hợp quốc.

Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia Nguyễn Minh Vũ

Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia Nguyễn Minh Vũ

Nhiệm vụ hợp tác quốc tế về biển được Đảng và Nhà nước ta coi trọng như thế nào, thưa Thứ trưởng?

Là một trong những nước bỏ phiếu thông qua UNCLOS và ký Công ước trong ngày mở ký, ngay từ trước khi Công ước có hiệu lực ngày 16/11/1994, trong Nghị quyết phê chuẩn UNCLOS ngày 23/6/1994, Việt Nam đã khẳng định quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển. Như hầu hết các quốc gia ven biển khác, Việt Nam ngày càng đề cao hợp tác quốc tế về biển, đặt vấn đề này trong tổng thể chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế và khu vực.

Điều 6, Luật Biển Việt Nam 2012 khẳng định Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, các bên cùng có lợi, đồng thời quy định cụ thể các nội dung hợp tác quốc tế về biển.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành quả từ thực tiễn đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển thời gian qua, với phương châm “chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển”, Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết 36) do Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tháng 10/2018 ban hành đã đề ra các giải pháp triển khai phù hợp với hoàn cảnh đất nước và xu thế thời đại.

Theo đó, đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển gắn bó chặt chẽ, trở thành một trong năm chủ trương lớn và một trong giải pháp chủ yếu trong Nghị quyết 36 nhằm xây dựng và duy trì môi trường hoà bình, ổn định và trật tự pháp lý trên biển, tạo cơ sở khai thác và sử dụng biển an toàn, hiệu quả; tăng cường, mở rộng quan hệ và chủ động tham gia, đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của nhân loại trong việc bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương; đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực, sự hỗ trợ quốc tế để nâng cao năng lực quản lý và khai thác biển.

Sự coi trọng vấn đề hợp tác biển cũng được thể hiện trong rất nhiều các văn bản pháp lý và chính sách quan trọng khác của Việt Nam ban hành thời gian qua như Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo 2015, Luật Thuỷ sản 2017; Luật Dầu khí 2022, Đề án hợp tác quốc tế về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, hay Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050…

Kết tinh từ các văn bản này là quan điểm nhất quán của Việt Nam về hợp tác quốc tế về biển, theo đó Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. Việt Nam đề cao vai trò của UNCLOS với tư cách là khuôn khổ pháp lý cho tất cả các hoạt động trên biển và đại dương, và là cơ sở pháp lý cho mọi hành động và hợp tác ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu.

Việt Nam cam kết cùng các nước nỗ lực hợp tác duy trì hoà bình, ổn định, an ninh trật tự trên biển, tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông; hợp tác giải quyết tranh chấp tại Biển Đông bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; đánh giá cao vai trò của các nước cũng như hoan nghênh các sáng kiến hợp tác về biển trên tất cả các lĩnh vực với mục đích cùng có lợi và phát triển bền vững ở Biển Đông.

Thứ trưởng có thể cho biết về những thành tựu nổi bật trong hợp tác quốc tế về biển của Việt Nam là gì?

Quan điểm đúng đắn về hợp tác quốc tế biển để cùng phát triển của Việt Nam nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế, và do vậy việc triển khai trong thời gian qua đã đem lại những thành tựu nhất định.

Trong việc giải quyết và quản lý tranh chấp, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, Việt Nam đã lần lượt giải quyết được vấn đề phân định biển tại Vịnh Thái Lan với Thái Lan năm 1997, tại Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc năm 2000 và phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế với Indonesia năm 2003 và 2022. Hiện Việt Nam đang nỗ lực cùng các bên giải quyết các vấn đề tranh chấp còn tồn đọng, như đàm phán với Trung Quốc về phân định biển ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy đàm phán với Malaysia về vùng biển chồng lấn giữa hai bên.

Đồng thời, căn cứ chế định các vùng biển như thể hiện trong UNCLOS và thực tiễn quốc tế, Việt Nam có những giải pháp linh hoạt, sáng tạo trong quá trình giải quyết, xử lý tranh chấp như thỏa thuận tiến hành khai thác chung dầu khí với Malaysia tại thềm lục địa chồng lấn giữa hai nước trước khi phân định năm 1992, cùng Malaysia đệ trình Báo cáo chung về Ranh giới thềm lục địa ngoài 200 hải lý năm 2009.

Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ phát biểu tại Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (SPLOS) lần thứ 34 tại trụ sở Liên hợp quốc, New York từ ngày 10-14/6

Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ phát biểu tại Hội nghị các quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (SPLOS) lần thứ 34 tại trụ sở Liên hợp quốc, New York từ ngày 10-14/6

Với Trung Quốc, ta đã đạt thỏa thuận về hợp tác nghề cá với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ cùng với việc ký hiệp định phân định năm 2000 và hợp tác triển khai các dự án về các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển với Trung Quốc như Dự án “Hợp tác nghiên cứu so sánh tiến hoá trầm tích thời kỳ Holocen khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang”; “Triển khai hợp tác thả giống và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong Vịnh Bắc Bộ”; “Hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ”...

Việt Nam cũng đã cùng các nước ASEAN ký với Trung Quốc Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) năm 2002 nhằm mục đích duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm tự do hàng hải và hàng không tại khu vực, tạo điều kiện cho việc giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông. Hiện nay, Việt Nam cùng các nước ASEAN và Trung Quốc nỗ lực đàm phán một Bộ quy tắc ứng xử (COC) hiệu lực, thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS.

Để đối phó với các thách thức an ninh biển phi truyền thống, ta cũng triển khai cơ chế tuần tra chung với Campuchia trong Vịnh Thái Lan, với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ, hợp tác về ngăn chặn các vụ cướp biển và cướp có vũ trang ở châu Á với các nước trong khuôn khổ Hiệp định liên Chính phủ về chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền tại châu Á ReCAAP...

Trong các lĩnh vực chuyên ngành về biển, Việt Nam đã thiết lập được mạng lưới hợp tác quốc tế về biển rộng mở với các nước có tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ mạnh về biển như Nga, Nhật Bản, Mỹ, Australia, Trung Quốc...

Việt Nam cũng đã nâng cao vị thế và vai trò trên trường quốc tế thông qua việc chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các diễn đàn quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN. Cụ thể, ta đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020, thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2020-2021, là một trong các quốc gia thuộc Nhóm nòng cốt xây dựng dự thảo Nghị quyết xin ý kiến tư vấn của Toà án Công lý quốc tế về trách nhiệm của các quốc gia đối với biến đổi khí hậu, là thành viên sáng lập Nhóm bạn bè của UNCLOS cam kết thúc đẩy việc thực hiện và tuân thủ công ước, tham gia đàm phán và ký kết Hiệp định trong khuôn khổ UNCLOS về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học nằm ngoài vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia 2023, là thành viên tích cực của Uỷ ban Pháp lý và kỹ thuật, Cơ quan quyền lực đáy đại dương...

Có thể thấy, nội dung và hình thức hợp tác quốc tế về biển giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu và phong phú, giúp ta tranh thủ tối đa các nguồn lực, sự hỗ trợ quốc tế để nâng cao năng lực quản lý và khai thác biển.

Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc, phương châm trong Chiến lược biển 2018, phát huy những thành tựu, bài học kinh nghiệm đã đạt được thời gian qua và với tinh thần sáng tạo trong các biện pháp, giải pháp phù hợp với tình hình quốc tế và khu vực và trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, hoạt động hợp tác quốc tế về biển đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần quan trọng vào việc tăng cường tin cậy chính trị, quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa ta với các nước; từng bước giải quyết các tranh chấp trên biển; bảo đảm Biển Đông là một vùng biển hoà bình, ổn định và phát triển bền vững.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất