(TTĐN) - Người Thái ở Tây Bắc có mặt khá sớm ở miền Bắc Việt Nam, có thể từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn, cách đây hơn 2.000 năm, các bằng chứng khoa học càng ngày càng chứng minh điều này. Họ là một trong nhiều cộng đồng người cùng tham gia vào việc khai thác lưu vực sông Hồng, sông Đà ở Bắc Bộ Việt Nam tạo ra văn hóa Đông Sơn, nền tảng của Nhà nước đa tộc người Văn Lang-Âu Lạc.
 |
Các cô gái Cơ Tu múa với cánh tay xòa ngang. (Ảnh: Gia Minh)
|
Xòe Thái là một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc của người Thái, đã được UNESCO vinh danh là nghệ thuật độc đáo đại diện của nhân loại từ năm 2021. Các tỉnh ở vùng “lõi” của xòe Thái là Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên đang là nơi có sức phục hồi nhanh chóng các ngày lễ hội xòe. Các vùng miền núi Thanh Hóa, Nghệ An cũng là nơi lan tỏa của các điệu múa của người Thái. Hình ảnh các chiến sĩ Biên phòng tay nắm tay các ông bà, các cô gái Thái xinh đẹp cùng múa điệu xòe trong ngày hội đại đoàn kết các dân tộc thật là ý nghĩa và cảm động.
Các điệu xòe Thái có sức lan tỏa theo chiều rộng của không gian, khi các dân tộc anh em cũng có ảnh hưởng, đó là xòe Mường, xòe Tày ở Mường Lò, Nghĩa Lộ, Yên Bái. Ở người Tày (huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai) có điệu xòe Tà Chải. Điệu xòe nơi đây thường được tổ chức trong lễ hội Lồng tồng (lễ hội xuống đồng) được tổ chức vào ngày mùng 5 tháng Giêng, cúng thần nông. Sau khi cầu khấn, chủ lễ đánh chiêng khai hội. Ban đầu là xòe vòng tập thể, sau đó là xòe đôi, xòe bốn và cuối cùng là xòe chào. Đệm nhạc cho xòe là một dàn chiêng, trống, hai kèn, hai não bạt tưng bừng. Ban đầu là một vòng sau phá ra thành hai vòng, ba vòng xòe. Xòe của người Tày Tà Chải có được những nét giao lưu với xòe Thái Mường So và múa Vươn của người Giáy, thể hiện ở các điệu múa và nhạc cụ.
Xòe Thái còn có chiều sâu thời gian mà chúng tôi thấy ngôn ngữ múa cùng đạo cụ của xòe có mặt ở nhiều cộng đồng dân tộc khác từ khoảng 2.000 năm trước cho đến nay.
Xòe Thái là một điệu múa rất cổ, có những mối liên hệ với các điệu múa có từ thời văn hóa Đông Sơn được khắc họa trên trống đồng, thạp đồng.
 |
Người Đông Sơn nắm tay múa vòng tròn. (Ảnh: Trịnh Sinh)
|
Trên một số trống Đông Sơn của nước ta có khắc họa hình những người múa hóa trang đang đi vòng quanh hình ngôi sao giữa mặt trống. Rõ ràng, đây là điệu múa của người Việt cổ. Các tài liệu dân tộc học so sánh cho thấy, đây là điệu múa vòng tròn mà người múa hoặc cầm vũ khí hoặc cầm nhạc cụ múa theo đội hình vòng tròn. Nhiều hình trang trí trên mặt trống còn cho thấy cảnh người múa đứng sát nhau, cầm tay nhau hoặc giơ cao tay, giống như điệu múa cầm tay của xòe Thái nắm tay nhau quanh đống lửa nhảy múa mà tiếng Thái gọi là “Xe khăm khen” hay “Khắm khen” (múa cầm tay).
Trên một số trống đồng Đông Sơn cũng có hình khắc người múa với các “thế tay” khá độc đáo: hai tay giơ cao hay giơ ngang vai và bàn tay xòe rộng. Các “thế tay” này còn được thể hiện trong một số dân tộc ít người ở ta như các điệu múa của người Cơ Tu (tỉnh Quảng Nam).
Các điệu múa xòe ban đầu rất đơn giản của nhân dân lao động, ai cũng múa được trong điệu xòe vòng tập thể quanh đống lửa mà người Thái gọi là “Ỏm lọm tốp mư” (đi vòng tròn). Đi một vòng tròn trong xòe Thái đã gợi nhớ đến hình khắc đoàn người trang phục lông chim diễu hành mang vũ khí hay nhạc cụ được khắc họa thành một vành hoa văn trang trí quanh hình tượng mặt trời - ngôi sao trên mặt trống đồng.
Theo chúng tôi, trong văn hóa Đông Sơn tồn tại một di vật là chiếc môi đồng có tượng người đang ngồi thổi khèn bè ở phần cán muôi. Di vật này tìm được trong ngôi mộ thuyền Việt Khê (Hải Phòng). Đáng chú ý, khèn bè là một nhạc cụ không thể thiếu được trong các buổi xòe Thái hiện nay. Một đạo cụ, trang sức nữa không thể thiếu được trong xòe Thái là bộ trang sức bằng bạc đeo quanh thắt lưng của các cô gái Thái dường như liên hệ chặt chẽ với bộ xà tích, vòng ống có gắn nhạc mà các nhà khảo cổ học đã tìm được ở di tích Làng Vạc (thị xã Thái Hòa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An).
 |
Tượng người Đông Sơn thổi khèn bè. (Ảnh: Trịnh Sinh)
|
Người Đông Sơn ở Làng Vạc cũng múa với bộ đồ trang sức đeo khắp người được gắn những chiếc chuông nhỏ kêu leng keng. Nay thì các cô gái Thái cũng đeo đồ trang sức bạc trong các điệu xòe có tiếng leng keng như vậy trong điệu múa uyển chuyển, tôn thêm vẻ đẹp cơ thể thon gọn với trang phục áo cóm, gợi nhớ những lễ hội múa nhạc xa xưa.
Xòe Thái còn lưu giữ được những nét đẹp sâu thẳm trong tâm thức dân tộc, gắn với quan niệm xưa nay về lao động sản xuất, có những câu tục ngữ như: “Không xòe không tốt lúa, không xòe thóc cạn bồ". Người Thái cũng là dân tộc trồng lúa nước, vì thế, các điệu múa của họ cũng là sinh hoạt tín ngưỡng mong cho mùa màng tươi tốt. Xòe Thái thể hiện tính cộng đồng, cộng cảm rất cao, cũng thể hiện được tâm thức của cư dân nông nghiệp cần góp sức để chống lại thiên tai, địch họa. Hơn thế nữa, các điệu xòe Thái còn chắp cánh cho tình yêu đôi lứa trong ngày hội xòe, những quyến luyến, đắm say khi những tình cảm chớm nở đã vội chia tay, để rồi hẹn lại mùa hội xòe tiếp sau gặp gỡ.
Ngày nay, xòe Thái đã trở thành di sản văn hóa mang tầm thế giới. Vấn đề đặt ra là chúng ta cần giữ gìn và phát huy giá trị di sản này như thế nào, nhất là về du lịch để ngày hội càng tưng bừng hơn, lôi cuốn nhiều khách du lịch trong và ngoài nước hơn, làm cho nét đẹp hồn nhiên của những điệu xòe trở nên đằm thắm và nhớ mãi một miền quê Tây Bắc hiếu khách./.
Giáo sư, Tiến sĩ Trịnh Sinh
Nguồn: bienphong.com.vn