Bộ đội Trường Sơn - chân trần, trí thép làm nên huyền thoại
Bộ đội Trường Sơn vận chuyển bộ đội, vũ khí, lương thực thực phẩm từ miền Bắc chi viện giải phóng miền Nam. (Ảnh: TTXVN)

Bộ đội Trường Sơn vận chuyển bộ đội, vũ khí, lương thực thực phẩm từ miền Bắc chi viện giải phóng miền Nam. (Ảnh: TTXVN)

Thành lập ngày 19/5/1959, trong suốt 16 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Bộ đội Trường Sơn luôn nêu cao tinh thần kiên cường, dũng cảm, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, làm nên một Trường Sơn huyền thoại, góp phần đặc biệt quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống nhất đất nước.

Hoạt động của Bộ đội Trường Sơn diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, từ sửa chữa, làm mới, ngụy trang, chiến đấu bảo vệ cầu, đường; tổ chức vận tải đường bộ, đường sông bằng phương tiện thô sơ, cơ giới, cả ngày lẫn đêm; tổ chức và bảo vệ hệ thống bến, kho, trạm, binh trạm; tiếp nhận, cất trữ, cấp phát vật chất, vũ khí, trang bị; đưa đón cán bộ, bộ đội vào Nam, ra Bắc; chiến đấu chống địch tiến công đường bộ, đường sông và đường không; phối hợp chiến đấu với các đơn vị chủ lực của Bộ và lực lượng vũ trang hai nước bạn; đào tạo cán bộ; tổ chức giao liên, văn hóa-văn nghệ; thu dung, điều trị thương binh, bệnh binh; sửa chữa, khôi phục xe-máy, khí tài, trang bị; phối hợp với cấp ủy, chính quyền, vận động nhân dân các địa phương trên tuyến vận tải chiến lược đi qua…

Với tầm vóc của một đơn vị binh chủng hợp thành có quy mô lớn nhất, hoạt động trên địa bàn rộng nhất với phương thức đa dạng nhất, Bộ đội Trường Sơn là lực lượng chiến lược góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến lược, chiến dịch, đặc biệt là các chiến dịch từ năm 1971 đến 1975, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Bộ đội Trường Sơn - đơn vị mở đường chiến lược

Trong những năm 1959-1975, với tinh thần "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai", "Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm", "Máu có thể đổ, đường không thể tắc", Bộ đội Trường Sơn đã chủ động, sáng tạo, mưu trí, dũng cảm làm nhiệm vụ mở đường, bảo đảm nhiệm vụ hậu cần chiến lược, chi viện cho chiến trường miền Nam, Lào, Campuchia.

Trong điều kiện vô cùng khốc liệt, khó khăn, gian khổ chồng chất khó khăn, gian khổ; địch đánh phá các tuyến đường đơn vị hoạt động với hơn 8 triệu quả bom các loại và bắn hàng chục triệu đạn pháo, đạn rốc két; khí hậu, thời tiết hết sức khắc nghiệt "nắng như đổ lửa", "mưa như trút nước" và rất thiếu thốn phương tiện, điều kiện ăn ở, sinh hoạt, chiến đấu, mở đường… cán bộ, chiến sỹ Bộ đội Trường Sơn đã khắc phục mọi khó khăn, trưởng thành vượt bậc, dũng cảm bám đường, bám tuyến, tích cực đánh địch trên không, dưới đất, hoạt động liên tục không kể ngày đêm để "tất cả cho chiến trường đánh thắng".

Lễ tuyên thệ vượt cung đường lửa - Đường 20 Quyết Thắng, trọng điểm ATP. Từ năm 1965 đến 1972, đường Trường Sơn phát triển mạnh mẽ, tiến lên cơ giới hóa toàn tuyến vận tải quân sự. (Ảnh: Hứa Kiểm)

Lễ tuyên thệ vượt cung đường lửa - Đường 20 Quyết Thắng, trọng điểm ATP. Từ năm 1965 đến 1972, đường Trường Sơn phát triển mạnh mẽ, tiến lên cơ giới hóa toàn tuyến vận tải quân sự. (Ảnh: Hứa Kiểm)

Bằng những nỗ lực phi thường, Bộ đội Trường Sơn đã mở được một hệ thống Đường Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh chiến lược vượt qua rừng núi trùng điệp, hiểm trở ở Trường Sơn, bảo đảm cho các binh đoàn, các binh chủng cơ động chiến đấu được thuận lợi; đồng thời bảo đảm vận chuyển vũ khí, lương thực, đáp ứng ngày càng lớn cho bộ đội chiến đấu ở các chiến trường.

Đường Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh trở thành mạng đường liên hoàn, vững chắc với 5 trục đường ôtô chạy dọc hai bên Đông và Tây Trường Sơn, 21 trục đường ngang tới chiến trường Trị Thiên, Khu 5, Nam Bộ, Campuchia và Lào, nối Đông và Tây Trường Sơn với tổng chiều dài hơn 17.000 km; một tuyến đường kín dài 3.140 km; hệ thống đường sông dài 500 km; hệ thống đường ống xăng dầu gần 1.500 km xuyên Đông và Tây Trường Sơn vào đến Bù Gia Mập (Bình Phước); hệ thống đường dây thông tin gồm 4.000 km dây trần, 11.569 km dây bọc, 384 km dây cáp... từ miền Bắc đến các chiến trường miền Nam, Trung-Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, đi qua 20 tỉnh của 3 nước Đông Dương.

Bộ đội Trường Sơn đã xây dựng hàng trăm cầu xi măng, cầu nổi, cầu gỗ, cầu dây cáp, vượt sông suối với chiều dài 57 km; cải tạo hàng trăm km đường sông; phá gỡ 12.600 quả bom từ trường, bom nổ chậm, hơn 10 vạn quả bom vướng nổ; phục vụ đắc lực cho các đơn vị vận chuyển và các binh đoàn cơ động chiến đấu được nhanh chóng.

Riêng trong mùa Xuân năm 1975, các đơn vị công binh đã khôi phục và mở rộng được 2.577 km đường ôtô, bắc lại 83 chiếc cầu, kịp thời phục vụ các binh đoàn cơ động, tiến công địch được thuận lợi.

Chi viện trực tiếp cho các chiến trường, chiến dịch

Với nỗ lực cao độ, Bộ đội Trường Sơn đã chi viện sức người, sức của cho các chiến trường. Suốt 16 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Bộ đội Trường Sơn đã vận chuyển chi viện cho các chiến trường trên 1,5 triệu tấn hàng hóa và 5,5 triệu tấn xăng dầu; bảo đảm cho hơn 1,1 triệu lượt cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường miền Nam và các hướng mặt trận, đưa hơn 650.000 lượt cán bộ, chiến sỹ từ các chiến trường ra hậu phương miền Bắc, tiếp sức cho các chiến trường đánh bại từng chiến lược chiến tranh của địch.

Khi bộ đội ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, lượng hàng hóa vận chuyển tới các mặt trận lên tới 66.500 tấn. Trong năm 1973 và 1974, lượng hàng giao cho các chiến trường là hơn 403.300 tấn, gấp 3,8 lần giai đoạn 1969-1972. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Bộ đội Trường Sơn đã làm nên kỳ tích cơ động 3 quân đoàn chủ lực thần tốc từ miền Bắc vào tham gia giải phóng miền Nam.

Bất chấp máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá ác liệt tại ngã ba Đồng Lộc (Nghệ Tĩnh), anh em lái xe thuộc Xí nghiệp Vận tải số 20 Nghệ Tĩnh vẫn dũng cảm bám đường, đưa hàng tới đích an toàn. Từ năm 1965 đến 1972, đường Trường Sơn phát triển mạnh mẽ, tiến lên cơ giới hóa toàn tuyến vận tải quân sự. (Ảnh: Văn Sắc)

Bất chấp máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá ác liệt tại ngã ba Đồng Lộc (Nghệ Tĩnh), anh em lái xe thuộc Xí nghiệp Vận tải số 20 Nghệ Tĩnh vẫn dũng cảm bám đường, đưa hàng tới đích an toàn. Từ năm 1965 đến 1972, đường Trường Sơn phát triển mạnh mẽ, tiến lên cơ giới hóa toàn tuyến vận tải quân sự. (Ảnh: Văn Sắc)

Bên cạnh đó, Bộ đội Trường Sơn còn kết hợp tốt việc vận chuyển đường bộ với đường sông, đường ôtô, chuyển được 1 triệu 35 vạn tấn vũ khí lương thực, thuốc men và đưa đón, hộ tống bộ đội vào chiến trường, bảo đảm cho các đơn vị vận tải và các đơn vị xe tăng, pháo binh cơ động chiến đấu.

Không chỉ làm tốt nhiệm vụ vận chuyển, Bộ đội Trường Sơn còn chăm lo sức khỏe cho các đơn vị trên tuyến vận tải chiến lược và các đơn vị hành quân vào Nam, ra Bắc. Từ năm 1966 đến 1975, quân y Bộ đội Trường Sơn đã thu dung gần 430.000 thương binh, bệnh binh; điều trị khỏi đưa về đơn vị tiếp tục chiến đấu gần 325.000 đồng chí (hơn 75,5%). Trong các chiến dịch, nhất là Chiến dịch Đường 9-Nam Lào năm 1971, quân y Bộ đội Trường Sơn đã cứu chữa hàng nghìn tù binh, thực hiện tốt chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta.

Chiến đấu bảo vệ tuyến vận tải và trực tiếp tham gia các chiến dịch

Từ giữa năm 1964, đế quốc Mỹ đã tập trung lực lượng, sử dụng nhiều vũ khí, trang bị hiện đại nhất lúc bấy giờ để tiến hành đánh phá các tuyến đường, đồng thời mở hàng trăm cuộc hành quân càn quét, nhằm cắt đứt tuyến vận tải chiến lược của bộ đội ta.

Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tất cả vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong 16 năm chiến đấu anh dũng, Bộ đội Trường Sơn đã trực tiếp tham gia chiến đấu trên 2.500 trận, diệt 18.740 tên địch, bắt hơn1.200 tên, gọi hàng trên 10.000 tên, bắn rơi hơn 2.450 máy bay địch, phá hủy hàng vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh khác của địch, lập nên những kỳ tích anh hùng, làm nên một Trường Sơn huyền thoại.

Riêng 6 tháng đầu năm 1972, lực lượng phòng không Bộ đội Trường Sơn đã bắn rơi hơn 190 máy bay các loại, trong đó có 71 chiếc rơi tại chỗ; lực lượng bộ binh liên tục chiến đấu, diệt hơn 1.920 tên địch, làm bị thương hơn 1.500 tên, bắt hơn 50 tên, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.

Trong Chiến dịch Đường 9-Nam Lào, Bộ đội Trường Sơn bắn rơi hơn 340 máy bay, diệt hơn 8.100 tên địch, bắt 1.160 tên, phá hủy hơn 130 xe tăng, xe cơ giới và hơn 80 khẩu pháo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là một hướng chính của chiến dịch.

Nhờ tuyến đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, quân đội ta đã thực hiện được những cuộc hành quân lớn, cùng xe tăng, tên lửa, pháo hạng nặng và nhiều khí tài quân sự để chi viện cho tiền tuyến đánh giặc. (Ảnh: Vũ Tạo)

Nhờ tuyến đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh, quân đội ta đã thực hiện được những cuộc hành quân lớn, cùng xe tăng, tên lửa, pháo hạng nặng và nhiều khí tài quân sự để chi viện cho tiền tuyến đánh giặc. (Ảnh: Vũ Tạo)

Không chỉ trực tiếp chiến đấu, Bộ đội Trường Sơn còn là lực lượng phối hợp tác chiến quan trọng với bộ đội chủ lực trong các chiến dịch như giải phóng Khe Sanh, Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968, Chiến dịch Đường 9-Nam Lào (1/1971), Chiến dịch Giải phóng Quảng Trị và bảo vệ Thành Cổ mùa hè năm 1972, Chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên (3/1975), Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng và các tỉnh Duyên hải miền Trung...

Đặc biệt, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Bộ đội Trường Sơn sử dụng 6 sư đoàn binh chủng tham gia chiến đấu. Trong đó, 2 sư đoàn ôtô chiến đấu của Bộ đội Trường Sơn đã trở thành lực lượng cơ động bộ binh đi cùng xe tăng, xe thiết giáp của các quân đoàn chủ lực đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, sân bay Biên Hòa, bộ tổng Tham mưu ngụy và Dinh Độc lập.

Tăng cường đoàn kết, liên minh chiến đấu 3 nước Việt Nam-Lào-Campuchia

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình", trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Bộ đội Trường Sơn đã hoàn thành xuất sắc vai trò là lực lượng trực tiếp hiện thực hóa thành công chủ trương của Đảng về xây dựng, củng cố, tăng cường đoàn kết, liên minh chiến đấu của ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung.

Trong những năm 1970, 1971, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Ðông Dương, Bộ đội Trường Sơn đã phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân hai nước bạn, đẩy mạnh tiến công địch ở Trung-Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, giải phóng các khu vực Attapeu, Saravane, Kengcốc, Pha Lan, mở rộng vùng giải phóng đến Tây Nguyên và miền Ðông Nam Bộ, tạo thế và lực mới cho cách mạng ba nước.

Cuối năm 1972, Bộ đội Trường Sơn phối hợp với Bộ đội Pathet Lào tiến công giải phóng một vùng rộng lớn từ ngã ba các đường 11, 13 đến Đồng Hến và từ Saravane, Bolaven đến Attapeu ở Hạ Lào.

Với tinh thần quốc tế vô sản, Bộ đội Trường Sơn đã tích cực, tận tình giúp đỡ bạn xây dựng, củng cố cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang, ổn định đời sống và sinh hoạt cho khoảng 250.000 bà con các dân tộc trên địa bàn hoạt động; tổ chức hơn 1.000 lớp học văn hóa cho hơn 2 vạn người học... ở 13 huyện dọc theo tuyến đường hành lang vận chuyển phía Tây.

Đáp lại tình cảm của Đảng, nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam mà Bộ đội Trường Sơn là đại diện tiêu biểu, trực tiếp, lực lượng vũ trang và nhân dân hai nước bạn đã góp công sức xây dựng, chiến đấu bảo vệ tuyến vận tải chiến lược; chở che, giúp đỡ bộ đội và các lực lượng chiến đấu, công tác; tự nguyện dời bản, chuyển nhà để tuyến vận tải chiến lược ngày càng mở rộng, vươn xa...

Chiến dịch giải phóng Thừa Thiên-Huế chính thức mở màn ngày 21/3/1975, đến 26/3/1975, cờ cách mạng tung bay trên đỉnh Ngọ Môn. Thừa Thiên-Huế được hoàn toàn giải phóng. (Ảnh: TTXVN)

Chiến dịch giải phóng Thừa Thiên-Huế chính thức mở màn ngày 21/3/1975, đến 26/3/1975, cờ cách mạng tung bay trên đỉnh Ngọ Môn. Thừa Thiên-Huế được hoàn toàn giải phóng. (Ảnh: TTXVN)

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, sức mạnh của tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương được phát huy cao độ, trở thành biểu tượng sáng ngời của tinh thần quốc tế vô sản vô tư, trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình.

Có thể khẳng định, khí phách và tinh thần yêu nước đã thấm sâu vào Bộ đội Trường Sơn, giúp họ vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, bằng mồ hôi, công sức và máu xương của mình, họ đã lập nên những chiến công chói lọi, ghi dấu ấn sâu đậm vào lịch sử cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Với những chiến công vẻ vang và những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Bộ đội Trường Sơn được Đảng, Nhà nước ghi nhận với nhiều phần thưởng, danh hiệu cao quý như Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Có 85 tập thể và 52 cá nhân thuộc Bộ đội Trường Sơn được tuyên dương và truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 202 lượt tập thể được tặng thưởng Huân chương Quân công, 4.814 Huân chương Chiến công và 11.000 huân, huy chương các loại./.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất