Thúc đẩy sinh kế bền vững tại vùng đệm khu dự trữ sinh quyển thế giới
Đa dạng sinh học ở KDTSQ Núi Chúa được bảo tồn, phát triển tốt nhờ các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho người dân. (Ảnh: Bích Nguyên)

Đa dạng sinh học ở KDTSQ Núi Chúa được bảo tồn, phát triển tốt nhờ các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho người dân. (Ảnh: Bích Nguyên)

Hiện, Việt Nam đã trở thành quốc gia có số lượng KDTSQ thế giới đứng thứ 2 Đông Nam Á, sau Indonesia. Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Trí, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Chương trình con người và sinh quyển Việt Nam chia sẻ: "Cho đến nay, mạng lưới các KDTSQ thế giới của Việt Nam đã phát triển cùng với xu hướng chung của thế giới, đó là mỗi KDTSQ thế giới đều là một mô hình địa phương cho phát triển bền vững, ở cả quy mô quốc gia và quốc tế”.

 
Các KDTSQ đang đóng giữ vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân và ngôi nhà của các hệ động thực vật bản địa phong phú, các loài động thực vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp với diễn biến khôn lường, các KDTSQ là một trong các yếu tố quan trọng giúp cân bằng khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học nhờ vào các chức năng bảo tồn, hỗ trợ và phát triển.

Các vùng đệm của các KDTSQ, kết nối giữa vùng lõi gồm các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu vực phát triển kinh tế - xã hội, mang đến những cơ hội độc đáo cho các hoạt động phát triển bền vững, dựa trên thiên nhiên, có thể đóng góp cho cả công tác bảo tồn và phát triển kinh tế địa phương. Dự án BR được triển khai là nhằm hướng đến mục tiêu quản lý bền vững các KDTSQ và thúc đẩy sinh kế bền vững của cộng đồng ở vùng đệm.

Ông Nguyễn Văn Đệ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An, Trưởng Ban quản lý KDTSQ thế giới Tây Nghệ An, chia sẻ: “KDTSQ Tây Nghệ An nằm trên địa bàn 9 huyện miền Tây Nghệ An, với tổng diện tích gần 1,3 triệu ha, chiếm hơn 84% tổng diện tích tỉnh Nghệ An, dân số khoảng trên 1 triệu người, gồm 6 dân tộc anh em, với những nét văn hóa rất độc đáo và nhân văn đặc sắc, có giá trị đặc biệt về thiên nhiên và đa dạng sinh học, chứa đựng các giá trị to lớn về khoa học và môi trường”.

Một số dự án phát triển sinh kế bền vững đã được triển khai ở đây như dự án mở rộng sinh kế bền vững thông qua phát triển cây Mét tại xã Tam Quang và Tam Hợp, huyện Tương Dương. Dự án này tập trung vào việc giảm áp lực lên đa dạng sinh học và hệ sinh thái rừng tại 2 xã trên, bằng cách thúc đẩy việc trồng cây Mét thành một mô hình sinh kế bền vững cho 333 hộ dân, hỗ trợ quản lý rừng trên 500 ha rừng Mét hiện có, bổ sung 86,92 ha trên đất thoái hóa và đưa hơn 44ha vào đất sản xuất trước đây chưa trồng, đồng thời, tăng thu nhập của các hộ dân tham gia từ việc trồng cây Mét lên 20%.

Trong khi đó, hoạt động hỗ trợ cộng đồng vùng đệm phát triển dược liệu dưới tán rừng tại KDTSQ Tây Nghệ An đã củng cố sinh kế bền vững của người dân bằng cách xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích, phát triển các vườn ươm và triển khai 18 ha trồng dược liệu. Dự án góp phần tăng 20% thu nhập cho 500 gia đình, tạo ra các quỹ sinh kế xoay vòng và thành lập diễn đàn cộng đồng để hỗ trợ chia sẻ kiến thức và phát triển thị trường.

Còn tại KDTSQ Cù Lao Chàm – Hội An, việc phát triển các mô hình sinh kế cộng đồng bền vững kết hợp với du lịch sinh thái đã mang lại những hiệu quả rõ rệt. Không chỉ nâng cao nhận thức về bảo tồn, sáng kiến này còn hỗ trợ sản xuất, cải thiện sinh kế cho 320 hộ dân. Đồng thời, thiết lập cơ chế chia sẻ lợi ích, các tuyến du lịch sinh thái do cộng đồng quản lý. Dự án cũng tập huấn cho người dân địa phương về các phương pháp canh tác hữu cơ, tổ chức các hội thảo về quản lý chất thải và bảo vệ môi trường, hỗ trợ các nghề thủ công truyền thống như đan lát mây tre đan, và trồng lúa ST25, cùng nhiều hoạt động khác.

Với dự án phát triển sinh kế bền vững thông qua trồng cỏ kết hợp chăn nuôi bò, dê tại xã Gia Canh, huyện Định Quán, KDTSQ Đồng Nai, 259 hộ dân tham gia đã có nguồn thu nhập bền vững. Các hoạt động chính của dự án như tập huấn kỹ thuật về trồng cỏ và chăn nuôi gia súc, thành lập quỹ xoay vòng cộng đồng và thành lập các nhóm cộng đồng để chia sẻ tài nguyên được triển khai đều nhằm mục đích giảm áp lực lên tài nguyên rừng đã góp phần bảo vệ môi trường tại KDTSQ thế giới Đồng Nai.

Với sự hỗ trợ từ các Quỹ nhỏ của Dự án BR, đồng bào dân tộc thiểu số ở KDTSQ Tây Nghệ An đã phát triển được nhiều sản phẩm nông lâm nghiệp giới thiệu ra thị trường. (Ảnh: Kim Oanh)

Với sự hỗ trợ từ các Quỹ nhỏ của Dự án BR, đồng bào dân tộc thiểu số ở KDTSQ Tây Nghệ An đã phát triển được nhiều sản phẩm nông lâm nghiệp giới thiệu ra thị trường. (Ảnh: Kim Oanh)

Từ năm 2020 đến 2024, Dự án BR đã mang lại kết quả đáng kể trong việc tăng cường khung pháp lý về phát triển và quản lý bền vững các KDTSQTG tại Việt Nam. Dự án đã áp dụng cơ chế tài trợ nhỏ hỗ trợ cộng đồng tại 14 xã thuộc 3 KDTSQ Tây Nghệ An, Cù Lao Chàm - Hội An và Đồng Nai triển khai các mô hình sinh kế bền vững trong sản xuất nông lâm kết hợp, chăn nuôi gia súc, và du lịch sinh thái cộng đồng... Các Quỹ quay vòng đã được thành lập tại mỗi xã để cung cấp các khoản vay quy mô nhỏ cho các thành viên cộng đồng theo cơ chế luân phiên, đã chứng tỏ là mô hình tài chính đáng tin cậy và bền vững cho phát triển cộng đồng về dài hạn. Kết quả thực hiện dự án giúp tăng cường phục hồi và quản lý bền vững cho hơn 1.8 triệu ha diện tích rừng và biển thuộc các KDTSQ miền Tây Nghệ An, Cù Lao Chàm - Hội An và Đồng Nai, nâng cao sinh kế cho hơn 3.100 hộ dân.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia và nhà quản lý, bên cạnh những thành công, việc quản lý các KDTSQ thế giới tại Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách thức cần giải quyết. Đó là những bất cập trong điều phối liên ngành; nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực còn hạn chế cho các KDTSQ; việc tăng cường sự tham gia và gắn kết cộng đồng, chia sẻ lợi ích trong quản lý tài nguyên thiên nhiên còn chưa đồng bộ, thiếu hiệu quả, tại một số khu vực; người dân vẫn thiếu thông tin, chưa nắm rõ và phát huy vai trò của mình trong bảo tồn, phát triển sinh kế...

Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng và cộng đồng địa phương cần tiếp tục huy động nguồn lực, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả hơn nữa các chính sách về phát triển và quản lý bền vững các KDTSQ thế giới tại Việt Nam để góp phần vào đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, và tầm nhìn chung sống hài hòa giữa thiên nhiên và con người trong các thập kỷ tiếp theo./.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất